Wednesday, April 20, 2011

Nguyễn Như Đổ, nhà chính trị, ngoại giao kiệt xuất


Nguyễn Như Đổ, nhà chính trị, ngoại giao kiệt xuất 

Theo www.hanoimoi.com.vn – 1 năm trước
Nguyễn Như Đổ, nhà chính trị, ngoại giao kiệt xuất 
03/01/2010 08:29

(HNM) - Vào đời vua Thái Tổ, Thái Tông, Đại Việt vừa trải qua cuộc kháng chiến chống Minh 10 năm, vì vậy việc cấp bách của nhà Lê trong buổi đầu xây dựng lại đất nước là phải chọn được hiền tài. Năm 1429, triều đình tổ chức thi Hoành từ; năm 1431 thi Minh kinh.
(HNM) - Vào đời vua Thái Tổ, Thái Tông, Đại Việt vừa trải qua cuộc kháng chiến chống Minh 10 năm, vì vậy việc cấp bách của nhà Lê trong buổi đầu xây dựng lại đất nước là phải chọn được hiền tài. Năm 1429, triều đình tổ chức thi Hoành từ; năm 1431 thi Minh kinh.
Cùng với ban chiếu cầu hiền, vua Lê Thái Tổ lại quy định các quan từ tam phẩm trở lên phải tiến cử những người tài vì lý do nào đó còn ở nơi thôn cùng xóm vắng. Những biện pháp trên đã làm nức lòng kẻ sĩ.
Tại kỳ thi Hội đầu tiên thời Hậu Lê (năm Đại Bảo thứ ba, 1442) NguyễnNhư Đổ (1424 - 1526), tên chữ Mạnh An, tên hiệu Khiêm Trai, người làng Đại Lan Châu, huyện Thanh Đàm, trấn Sơn Nam (nay là thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì, Hà Nội) đỗ đầu, thi Đình đậu Bảng nhãn, khi vừa 19 tuổi. Khi Nguyễn Như Đổ vừa thi Đình xong, ông liền được cử làm Soạn chế cáo ở Viện Hàn lâm, năm 1449, thăng Trực học sĩ. Nhà nước phong kiến lấy con đường đi sứ gian truân làm nơi rèn luyện và thử thách các sĩ phu. Vào mùa thu năm Kỷ Mão (1459), ông được cử đi sứ lần thứ ba sang Minh. Cũng như hai lần trước (1443 và 1449), trong cống phẩm lần này có cả ngọc trai. Nguyễn Như Đổ hiểu rõ nỗi thống khổ của người dân Đại Việt phải lặn tìm nơi biển sâu thứ của quý này, đúng như NguyễnTrãi đã viết trong Bình Ngô đại cáo: “Mò ngọc trai thì mặc giao long mà giòng lưng lặn biển”. Ông đã cùng Lê Cảnh Huy, Hoàng Thanh và Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư biện bạch với vua tôi nhà Minh miễn cho cống phẩm này.
Nguyễn Như Đổ, nh chnh trị, ngoại giao kiệt xuất 
Một góc phố Nguyễn Như Đổ.   Ảnh: Đàm Duy
Năm Quang Thuận thứ 3 (1462), Hàn lâm học sĩ Tiền Phổ nhà Minh sang sách phong. Tiền Phổ là người thích tranh luận và hay bắt bẻ. Nguyễn NhưĐổ được vua Lê Thánh Tông giao trọng trách tiếp. Trong 12 ngày ở Đại Việt, sứ thần này đã khâm phục tài cao học rộng cũng như tinh thần trung quân ái quốc của Nguyễn Như Đổ.
Trong 16 năm, trải ba lần đi sứ và giữ một số chức quan ở trong triều, ngoài nội, Nguyễn Như Đổ đã trưởng thành. Năm 1460, Lê Thánh Tông lên ngôi, vị vua tài giỏi rất trọng hiền tài, đã chọn ông làm Lại bộ Thượng thư, giữ việc cất nhắc, tuyển bổ các quan. Việc hệ trọng và chẳng đơn giản chút nào. Tuyển bổ đúng thì được vua khen, tuyển bổ sai thì bị biếm chức. Những việc ông làm góp phần tích cực chỉnh đốn lại bộ máy hành chính từ nội triều đến các làng xã. Cùng với chức Kiêm thừa chỉ Học sĩ Viện Hàn lâm (người đứng đầu của viện), ông còn được giao chức Tả ty sảnh môn hạ, Tả gián nghị đại phu, coi sổ sách quân dân ở Bắc đạo, tiến lên kiêm Thượng thư Bộ Lễ, Đại học sĩ điện Cẩn Đức, tân khách của Thái tử.
Như vậy, trong những năm đầu của thời Lê Thánh Tông, Nguyễn Như Đổ đã giữ cả hai bộ quan trọng nhất của triều đình. Trong 38 năm Đại Việt được sống trong hoà bình, kinh tế, văn hoá, giáo dục, đều phát triển ở mức cao. Các đời vua sau đều lấy đó làm mẫu mực noi theo. Trong thành tựu chung này, Nguyễn Như Đổ đã có đóng góp đáng kể. Muốn đất nước hưng thịnh, không phải chỉ có vua hiền mà còn cần phải có tôi giỏi.
Ngoài những cống hiến xuất sắc trên các mặt chính trị, ngoại giao, NguyễnNhư Đổ còn là nhà giáo dục có nhiều đóng góp. Là vị quan trẻ, có học vấn uyên thâm, ông được cử vào Điện Cẩn Đức dạy Thái tử. Năm Quý Mùi 1463, ông được cử làm độc quyển trong kỳ thi đình. Đó là một trong hai kỳ thi đông vui nhất của thời Lê Thánh Tông. Sĩ tử khắp nước về kinh đô tới 4.000 người. Kỳ thi này lấy Lương Thế Vinh đỗ Trạng nguyên. Sau đó, ông còn được cử làm Đề điệu (Chánh chủ khảo) trong hai kỳ thi Đình năm Bính Tuất 1466 và Kỷ Sửu 1469.
Năm 1486, cùng với việc sửa chữa lại Văn Miếu, Nguyễn Như Đổ nhận chức Tế tửu Quốc Tử Giám trong 10 năm mới về hưu trí. Là hiệu trưởng trường đại học của quốc gia, ông có dịp chăm lo việc học cho những trò ưu tú trong cả nước. Sử cũ còn ghi một số cải cách của ông trong tuyển lựa khảo xét học trò được Lê Thánh Tông ưng thuận.
Nguyễn Như Đổ qua đời đã gần 500 năm, nhưng đời các vua sau đều nhắc nhở đến ông. Lê Quý Đôn, Lê Cao Lãng, Phan Huy Chú, NguyễnVăn Tố, Trần Văn Giáp… có những công trình viết về ông. Đặc biệt, khi soạn bộ Lịch triều hiến chương loại chí (đầu thế kỷ XIX), trong phần Nhân vật chí, Phan Huy Chú đã đánh giá Nguyễn Như Đổ là một trong 18 người có công lao phò tá tài đức thời Lê sơ: “Ông lúc trẻ thi đỗ khôi nguyên, khi lớn thì làm quan to lên được cõi thọ trăm tuổi, trải qua 8 triều, cũng là một sự ít có trong hoạn đồ”.
Trong sách Danh nhân Hà Nội, Trần Văn Giáp viết: “Hơn thế nữa, ngày nay chúng ta thấy ông vừa là nhà chính trị, nhà ngoại giao vừa là nhà quân sự, nhà giáo dục có một tài năng hiếm có. Ngoài ra, ông còn là một nhà văn, nhà thơ lỗi lạc”. Trong đời Thái Hoà, ông vâng mệnh soạn bài văn bia miếu Lê Khôi, tướng giỏi và là cháu của Lê Thái Tổ đặt ở núi Nam Giới (nay thuộc địa giới hai huyện Can Lộc và Thạch Hà, Hà Tĩnh). Theo Phan Huy Chú, ông có tập thơ lưu truyền, nay chỉ còn 6 bài chữ Hán chép trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, và một bài Biểu tạ ơn chép trong Hoàng các di văn hiện lưu tại Viện Nghiên cứu Hán - Nôm.
Nhận xét về thơ văn ông, Phan Huy Chú viết: “Như bảng nhãn họ Nguyễnở Lan Châu là người đỗ khôi nguyên lúc mới khai quốc, văn chương có tiếng ở đời”. Trần Văn Giáp nhận xét: “Trú ở phía nam thành Thăng Long, ông là một nhà thơ đặc biệt Hà Nội; thơ của ông thanh đạm mà phóng khoáng, tả cảnh sắc rất hoạt động. Câu cuối bài Thành nam viên cư nhắc người ta nhớ đến câu “Triều hồi nhật nhật điển xuân y” (Chầu về ngày ngày cố áo xuân) của Đỗ Phủ. Bài Thư trai xuân mộ chứng tỏ cái ung dung, thích thảng của một người có đạo đức cao quý, tự tin ở mình, coi thường danh lợi. Bài thơ trên có cái tài hoa của con người Hà Nội xưa, đóng góp vào kho tàng văn học viết về Thăng Long - Hà Nội”.
Ngày nay, nhớ về Nguyễn Như Đổ, chúng ta nhớ một con người tài ba đức độ. Ông làm quan to, có 112 mẫu điền lộc, được hưởng nhiều đặc ân của triều đình mà hằng ngày vẫn sống một cuộc đời thanh bần:
Ngày ngày vui thú an bần
Bạn cùng hoa trúc mỗi lần chầu tan.
(Trích Thành nam viên cư)


Đối với quê hương Đại Lan, ông dành cho dân làng nhiều nghĩa nặng tình sâu. Tại văn tế đình làng còn chép một đôi câu đối nói về tài năng của ông:
Trợ thần bút điểm chu đầu, tơn chù quả tam khôi cập đệ,
Phát thiên quang, trình bạch nhĩ, cung giai vi lục bộ thượng thư.
Chính vì có đạo lý nên ông đã để lại trong tâm khảm người dân niềm kính trọng sâu xa. Trong lịch sử khoa cử Việt Nam, tên tuổi Bảng nhãn NguyễnNhư Đổ được ghi trong sách Lê triều đăng khoa lục. Năm 1484, triều Lê cho dựng loạt bia đá ghi danh các tiến sĩ đầu tiên đặt tại Văn Miếu. Trên tấm bia khoa thi năm Đại Bảo thứ 3 (1442), khoa thi mở đầu của thời Lê sơ, Nguyễn Như Đổ đứng tên thứ hai, sau Trạng nguyên Nguyễn Trực. Tấm bia này hiện được đặt tại đình bia ở bên phải giếng Thiên Quang trong khu di tích Văn Miếu Quốc - Tử Giám. Tại làng Huỳnh Cung, xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, có ngôi đền thờ Đức thánh Chu, do Phạm Sư Mạnh và Lê Bá Quát dựng trên nền trường cũ của Chu Văn An từ đời Trần. Hậu cung có 63 bài vị thờ những người đỗ đại khoa của huyện, bài vị của NguyễnNhư Đổ đặt ở vị trí thứ hai, sau bài vị của Chu Văn An. Tại làng Đại Lan Châu, tên tuổi ông ghi trong Bản xã tiên hiền và có tên trong văn tế đọc tại đình làng vào sáng mồng một Tết Nguyên đán và lễ khai hạ mồng 6 tháng Giêng. Ngoài ra, trong bản văn tế của làng Trung Quan Châu (nay thuộc xã Văn Đức, huyện Gia Lâm), và văn tế hàng tổng: Đại Quan Châu (nay là huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên); tổng Vạn Phúc Châu (nay là huyện Thanh Trì, Hà Nội) đều có nêu công danh Nguyễn Như Đổ, vị đỗ khai khoa của làng Đại Lan. Tại làng Trung Quan Châu (vốn từ làng Đại Lan Châu tách ra) hiện có đền thờ Nguyễn Như Đổ, và dân làng này còn kể một số giai thoại về ông.
Ngày 2-2-1994, tại Kỳ họp thứ 19 HĐND TP Hà Nội khoá X đã ra nghị quyết đổi phố 225 ở bên cạnh Văn Miếu thành phố Nguyễn Như Đổ.
 
[ Trở về ]http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:Sf7KVDDdZfEJ:tintuc.xalo.vn/001742891696/Nguyen_Nhu_Do_nha_chinh_tri_ngoai_giao_kiet_xuatnbsp.html+Họ+Nguyễn+Như&cd=79&hl=en&ct=clnk&client=safari&source=www.google.com


Nguyễn Như Đổ (1424-1526)

Nguyễn Như Đổ (1424-1526) 

Ông là người làng Đại Lan (xã Duyên Hà, Thanh Trì, Hà Nội), có tên chữ là Mạnh An, hiệu Khiêm Trai. Năm 18 tuổi, ông đã đỗ đầu khoa thi hội đầu tiên của triều Lê (1442), là một trong 2 vị đại khoa trẻ nhất trong 321 vị khoa bảng của Thăng Long - Hà Nội. Ông làm ở Viện Hàn lâm, ông đã ba lần được cử đi sứ sang nhà Minh (vào các năm 1443, 1450 và 1459), làm An Phủ sứ bộ Quy Hóa rồi được thăng chức Thượng thư bộ Lại, Thượng thư bộ Lễ, Thưa chỉ học sĩ Viện Hàn lâm vào giai đoạn hưng thịnh nhất thời Hồng Đức nhà Lê.
Kỳ thi đình năm Quý Mùi (1463) đông tới 4000 sĩ tử, ông được cử độc quyền và lấy đỗ trạng nguyên Lương Thế Vinh.
Năm 1486, ông giữ Tế tử Quốc Tử Giám, hiệu trưởng trường đại học quốc gia này suốt 10 năm. Nhà sử học Phan Huy Chú đã xếp ông là 1 trong 18 phò tá có công lao và tài đức nhất thời Lê. Ông xứng đáng là bậc khoa danh đại thụ, trải qua 8 triều vua, thọ 102 tuổi, cũng là điều hiếm có. Ông còn để lại 6 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục. Tên ông khắc trên tấm bia đá đầu tiên dựng tại Văn Miếu (1484) và trong danh sách các bậc Tế tử Quốc Tử Giám ông ở hàng thứ 2 sau Chu Văn An.


Nguyễn Như Đổ (chữ Hán: 阮如堵; 1424-1526) là nhà chính trịnhà ngoại giaonhà thơ, nhà giáo dục thời Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam.

Mục lục

 [ẩn]

[sửa]Thân thế

Nguyễn Như Đổ có tên tự là Mạnh An, hiệu là Khiêm Trai. Ông vốn người gốc làng Đại Lan, huyện Thanh Đàm, nay là thôn Đại Lan thuộc xã Duyên Hà huyện Thanh TrìHà Nội[1], sau đó di sang làng Tử Dương (làng Tía), huyện Thượng Phúc, nay thuộc xã Tô Hiệu huyện Thường TínHà NộiViệt Nam[2].

[sửa]Sự nghiệp

Nguyễn Như Đổ đỗ Hội nguyên khoa Nhâm tuất (1442) đời Lê Thái Tông, sau đó ông đỗ đệ nhất giáp Tiến sĩ tên thứ hai, tức là mở đầu bảng nhãn thời Hậu Lê[3].
Mùa đông năm 1443 đời Lê Nhân Tông, ông giữ trọng trách soạn chế cáo trong Viện Hàn lâm. Sau đó ông vâng mệnh Nguyễn thái hậu (nhiếp chính) làm phó sứ, đi sứ nhà Minh để tạ phúng vua Lê Thái Tông mất. Khi trở về, ông được phong làm An phủ sứ lộ Quy Hóa.
Năm 1449, ông được thăng làm trực học sĩ.
Năm 1450, ông lại làm phó sứ sang nhà Minh lần thứ hai.
Tháng 10 năm 1459, anh vua Nhân Tông là Lạng Sơn vương Nghi Dân giết vua cướp ngôi. Lê Nghi Dân đặt niên hiệu là Thiên Hưng, trong tháng đó sai Nguyễn Như Đổ, Lê Cảnh Huy đi triều cống nhà Minh và xin bỏ việc mò ngọc trai.
Trong khi ông sang nhà Minh thì các đại thần Nguyễn XíĐinh LiệtLê LăngLê NiệmNguyễn Đức Trung... cùng nhau làm binh biến giết chết vua Thiên Hưng, lập hoàng tử Tư Thành lên ngôi, tức là Lê Thánh Tông.
Sang năm 1460, Nguyễn Như Đổ trở về, vẫn được Thánh Tông trọng dụng. Tháng 12 năm đó, ông được phong làm Lại bộ Thượng thư, lại thêm chức Tả ty sảnh Môn hạ, Tả gián nghị đại phu, coi sổ sách quân dân ở Bắc đạo, kiêm Thừa chỉ học sĩ Viện Hàn lâm. Sau đó ông lại kiêm cả Thượng thư Bộ Lễ, đại học sĩ điện Cẩn Đức, tân khách của thái tử Lê Tranh. Ông kiêm cả chức Đề hiệu quan chấm trường thi trong 2 kỳ thi điện năm Bính Tuất (1466) và Kỷ Sửu (1469).
Năm 1470, ông lãnh trách nhiệm cùng đi đánh Chiêm Thành. Trước khi toàn quân lên đường, ông được lệnh tế đền thờ Đinh Tiên Hoàng để cầu thắng trận. Trên đường đi, ông bị vua khiển trách phải trở về.
Sau khi Thánh Tông thắng Chiêm trở về kinh, lại trọng dụng ông, cho làm Thượng thư Bộ Lại, thêm chức Thiếu bảo, kiêm tế tửu Quốc Tử Giám. Hơn 10 năm sau, vì tuổi cao sức yếu, ông xin nghỉ hưu.
Năm 1526 đời Lê Cung Hoàng, ông mất, thọ 103 tuổi. Ngày nay ở quận Đống ĐaHà Nội có phố mang tên Nguyễn Như Đổ.

[sửa]Nhà thơ

Thơ văn của Nguyễn Như Đổ được lưu truyền sang đời sau, nhưng đến nay chỉ còn lại 6 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn[4]. Bài thơ nổi tiếng nhất là Thành Nam viên cư:
Nam thành bốc trúc kỷ kinh xuân
Dược phố, sơ huề thử thứ tân
Tiểu kính bất hiềm thông tử mạch
Đoản ly khước hỷ cách hồng trần
Trí đường vũ quá oa thanh náo
Đình viện âm nung, điểu ngữ tần
Hoa trúc khả cung u đạm hứng
Triều hồi nhật nhật lạc vong bần
Nhóm Lê Quý Đôn dịch:
"Nhà ở trong vườn phía nam thành"
Nhà dựng nam thành trải mấy xuân
Đám rau vườn thuốc mở mang dần
Chẳng e lối hẻm liền đường tía
Lại được rào thưa cách bụi trần
Mưa tạnh ếch kêu hồ rộn tiếng
Cây râm chim hót bóng đầy sân
Trúc hoa sẵn đủ mùi thanh đạm
Mỗi buổi chầu tan hưởng thú bần

[sửa]Nhận định

Nguyễn Như Đổ là một trong 2 vị đại khoa trẻ nhất trong các vị khoa bảng của Thăng Long. Ông có tài kiêm chính trịngoại giao và giáo dục, là tài năng hiếm có[5]. Phan Huy Chú viết về ông:
Ông lúc trẻ thi đỗ khôi nguyên, khi lớn làm quan to, lên được cõi thọ trăm tuổi, trải qua 8 triều [vua], cũng là sự ít có trong hoạn đồ[6].

[sửa]Xem thêm

[sửa]Tham khảo

[sửa]Chú thích

  1. ^ Bài báo Làng Đại Lan và những phát hiện mới trên Hà Nội mới điện tử số ra ngày 5/12/2006
  2. ^ Bài Về đạo sắc "Tử Dương thần từ" sớm nhất hiện còn của các tác giả Cung Khắc Lược, Chu Quang Trứ trên tạp chí Hán Nôm 1/1995
  3. ^ Trần Quốc Vượng, sách đã dẫn, tr 163
  4. ^ Trần Quốc Vượng, sách đã dẫn, tr 165
  5. ^ Trần Quốc Vượng, sách đã dẫn, tr 164
  6. ^ Trần Quốc Vượng, sách đã dẫn, tr 164

[sửa]Liên kết ngoài



LÊN ĐẦU TRANG